FIA sử dụng hệ thống quét laser để kiểm tra kỹ thuật xe đua F1
FIA đã giới thiệu hệ thống quét laser để kiểm tra kỹ thuật xe F1 một cách chính xác hơn, giúp đảm bảo các đội tuân thủ quy định khí động học phức tạp.
Theo dòng thời gian, F1 đã cho người hâm mộ trải qua những kỷ nguyên cảm xúc với những chiếc xe mạnh mẽ nhất. Nhưng đâu mới là kỷ nguyên F1 nhanh nhất lịch sử?
Công thức 1 là môn thể thao thiên về tốc độ. Việc chế tạo ra những chiếc xe nhanh nhất hành tinh không hề dễ dàng, tuy nhiên, các kỹ sư ở F1 luôn làm việc chăm chỉ để chế tạo ra những chiếc xe nhanh đến mức khó tin.
Nhưng bạn có thắc mắc, qua nhiều năm như vậy, kỷ nguyên F1 nào là kỷ nguyên nhanh nhất lịch sử?
Nói chung, kỷ nguyên F1 nhanh nhất chính là giai đoạn từ 2014-2021. Cuối những năm 2010 là khoảng thời gian người ta được chứng kiến nhiều kỷ lục lap đua trong quá khứ bị thế hệ mới phá vỡ.
Những chiếc xe từ đầu những năm 2000 vẫn giữ một số kỷ lục thời gian hoàn thành lap đua, và chắc chắn là chúng không hề chậm, khi mà tốc độ đua trung bình nhanh nhất thuộc về một chiếc xe vào năm 2003.
Tuy nhiên, việc so sánh các kỷ nguyên khác nhau khá khó vì vẫn có một số yếu tố ảnh hưởng đến tốc độ của chiếc xe. Bên cạnh đó, tốc độ tối đa không phải là yếu tố duy nhất cần xem xét trong F1.
Việc định nghĩa chiếc xe “nhanh nhất” không phải là nhiệm vụ đơn giản! Ngay cả khi bạn có toàn bộ tốc độ tối đa trên đường đua, bạn vẫn có thể không có chiếc xe nhanh nhất trong suốt cuộc đua. Xét cho cùng, Aston Martin dù có tốc độ cao nhất được ghi nhận trong mùa giải 2021 là 360 km/giờ, nhưng họ chưa bao giờ thắng một chặng đua nào, hay có thành tích xuất sắc ở phiên phân hạng.
Có chiếc xe nhanh nhất trong Công thức 1 có nghĩa là có một chiếc xe hoàn hảo, không nhất thiết phải là một chiếc tên lửa trên đoạn đường thẳng hoặc khi qua các gồ trên các góc cua. Chiếc xe Công thức 1 nhanh nhất hoàn toàn có thể đạt được lap đua nhanh nhất.
Tuy nhiên, có nhiều thứ hơn là chỉ là lap đua nhanh nhất. Các đường đua khác nhau có những đặc điểm khác nhau, vì vậy, dù một chiếc xe có thể cực kỳ nhanh trên một lap đua, nó vẫn có thể gặp khó khăn ở một lap đua khác.
Để xác định chiếc xe nào tốt nhất trên các đường đua khác nhau, chúng ta phải nhìn lại xem chiếc xe nào đã thống trị trong suốt một mùa giải. Điều này có nghĩa là, cho dù một chiếc xe có nhanh đến đâu, nó chưa hẳn là chiếc xe F1 nhanh nhất mọi thời đại.
Chắc hẳn thời kỳ thống trị đầu tiên hiện lên trong tâm trí của hầu hết mọi người là kỷ nguyên của Schumacher. Chiếc Ferrari F2004 đã giành chiến thắng 7 chặng đua liên tiếp từ GP Châu Âu 2004 đến GP Hungary 2004. Schumacher đã san bằng kỷ lục của Alberto Ascari - cũng được lập trên chiếc Ferrari vào năm 1952.
Tuy nhiên, kỷ lục đó đã sớm bị phá vỡ bởi Sebastian Vettel với chiếc Red Bull RB9 2013. Tay đua trẻ người Đức đã giành chiến thắng đáng kinh ngạc trong 9 chặng đua liên tiếp, và kỷ lục đó vẫn còn duy trì cho đến ngày nay.
Có thể nói, đây là chiếc xe thống trị nhất trong lịch sử F1, và có thể vị thế đó sẽ tiếp tục được tuy trì trong một thời gian dài. Ngoài ra, Vettel đã giành được 16 podium và 13 chiến thắng trong 19 cuộc đua ở năm đó.
Việc so sánh các mốc kỷ nguyên khác nhau không hề dễ dàng. Người hâm mộ F1 thường so sánh xe mới với xe cũ, hay tay đua mới với thế hệ trước. Đó thật sự là một sự so sánh không công bằng, đặc biệt là trong một môn thể thao phát triển mạnh mẽ như F1.
Không giống như phần lớn các môn thể thao khác, mỗi kỷ nguyên trong F1 là độc nhất. Bạn sẽ không bao giờ biết chắc chắn liệu Hamilton có giỏi hơn Senna hay không. Bạn cũng không thể so sánh Vettel với Fangio. Rõ ràng là không thể chứng minh được điều gì nếu không đặt cả hai vào cùng một chiếc xe trên cùng một đường đua.
Ngay cả khi làm được thì vẫn còn có những biến số không lường trước. Điều gì sẽ xảy ra nếu chiếc xe đang được sử dụng không phù hợp với phong cách đua của các tay đua? Điều gì sẽ xảy ra nếu đường đua họ đang thi đấu không phù hợp với một trong số họ?
Nghe thì có vẻ giống như những lời bào chữa nhưng thực sự chúng chính là những yếu tố quan trọng cần được xem xét. Sự đa dạng của các phong cách đua mà bạn nhìn thấy ở F1 là một phần khiến môn thể thao này trở nên thú vị và hấp dẫn người xem.
Dấu hỏi lớn đầu tiên là bộ quy tắc ở F1. Mỗi năm, các quy tắc đều được điều chỉnh và thay đổi. Trong một số trường hợp, một cuộc “cách mạng” lớn trong các quy tắc có thể làm rung chuyển cả đường đua, chẳng hạn như sự thay đổi quy định về động cơ vào năm 2014 đã “chuyển” quyền thống trị từ Red Bull sang Mercedes.
Sự thay đổi về quy tắc đi đôi với thực tế rằng mỗi kỷ nguyên của F1 là độc nhất vô nhị. Những chiếc xe không chỉ trông khác nhau về ngoại hình mà còn trong cả cách vận hành của chúng nữa.
Ngoài ra, hệ thống giảm lực cản là thứ chưa từng có trên bất kỳ chiếc xe nào trước năm 2011. Đây là thứ mới chỉ xuất hiện được khoảng một thập kỷ, nhưng nó mang lại cho thế hệ xe đua hiện tại một sự khác biệt lớn với lợi thế về tốc độ so với các thế hệ trước đó.
Lốp xe là yếu tố tạo ra sự khác biệt lớn về tốc độ của xe. Sự khác biệt lớn nhất cần xem xét là sự tương phản giữa lốp trơn và lốp có rãnh. Trong đó, lốp trơn giúp xe bám đường hơn, giúp tay đua vào cua nhanh hơn.
Lốp trơn được ưa chuộng hơn trong các cuộc đua vì chúng có bề mặt tiếp xúc lớn hơn so với lốp có gai. Ngược lại, rãnh ở một số lốp cũ làm cao su rơi ra khỏi đường nhựa, điều đó có nghĩa là tay đua có ít khả năng bám đường hơn. Nói chung là càng có nhiều cao su tiếp xúc vào đường đua thì bạn càng có khả năng bám đường tốt hơn.
Công thức 1 đã sử dụng lốp có rãnh vào đầu những năm 2000, giúp chúng ta chứng kiến một số xe Công thức 1 nhanh nhất trong lịch sử. Chúng tôi không chắc hiệu quả lap đua như thế nào nếu sử dụng lốp trơn, nhưng chúng sẽ nhanh hơn nhiều và vì vậy, mặc dù lốp là một phần của xe nhưng chúng không phải do các đội thiết kế. Chúng ta chỉ có thể tưởng tượng F2004 sẽ nhanh như thế nào khi có bộ lốp trơn!
Kỷ nguyên | Tốc độ tối đa |
---|---|
1950-1951 (Máy nén 4,5 NA/1,5 L) | 280 km/h |
1952-1953 (Bộ tăng áp 2,0L NA/0,5L) | 280 km/h |
1954-1960 (2,5 L NA) | 290 km/h |
1961-1965 (1,5 L) | 260 km/h |
1966-1986 (3,0 L NA/1,5 L Tăng Áp) | 340 km/h |
1987-1994 (3,5 L NA) | 340 km/h |
1995-2005 (3,0L V10) | 370 km/h |
2006-2013 (2,4L V8) | 340 km/h |
2014-nay (1,6 L Turbo lai) | 370 km/h |
Kỷ nguyên nhanh nhất của F1 là từ năm 2017 đến năm 2021. Trong thời gian này, chúng ta đã chứng kiến một số kỷ lục về tốc độ bị phá vỡ. Nhiều kỷ lục thời gian lap đua trong số này vẫn còn tồn tại từ thời thống trị của Schumacher và Ferrari vào giữa những năm 2000. Chúng ta thậm chí còn thấy tốc độ tối đa không chính thức mới do Valtteri Bottas đặt ra là 376 kph.
Nhưng chính xác thì tại sao những chiếc xe này lại nhanh như vậy? Có một số thay đổi quy tắc quan trọng được thực hiện vào năm 2017 cho phép xe F1 chạy nhanh hơn nhiều. Đầu tiên là những chiếc xe sẽ được làm với chiều rộng 2 m, trước đó là 1.8 m.
Sự gia tăng chiều rộng này đã mang lại nhiều diện tích bề mặt hơn cho chiếc xe, giúp tăng đáng kể downforce và tốc độ vào cua.
Động cơ hybrid cũng đã được cải tiến để tạo ra công suất 1.000 hp. Các bộ phận của cánh cũng được sắp xếp hợp lý để tạo ra ít lực cản hơn, từ đó đạt được tốc độ tối đa lớn hơn. Trên hết, lốp sau lớn hơn được bắt vít giúp xe bám đường hơn rất nhiều.
Đầu những năm 2000 là một kỷ nguyên đáng kinh ngạc khác của F1. Từ năm 2002 đến năm 2005, chúng ta đã chứng kiến những kỷ lục thời gian lap đua được thiết lập bởi những chiếc xe cực kỳ nhanh. Một số kỷ lục trong số đó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay. Chiếc xe ấn tượng nhất thời kỳ này chính là Ferrari F2004.
Những chiếc xe này có động cơ V10 tuy nhẹ nhưng mạnh mẽ với hệ thống kiểm soát độ bám đường và ABS, cho phép chúng giảm công suất một cách chính xác và dừng lại đúng lúc. Hai yếu tố này cho phép tay đua bức tốc mạnh mẽ hơn nhiều so với bình thường.
Khí động học của những chiếc xe vào giữa những năm 2000 có thể khá đơn giản nhưng rất hiệu quả. Những chiếc xe này tạo ra rất ít lực cản, vậy nên chúng chạy rất nhanh.
Trên thực tế, tay đua Juan-Pablo Montoya vẫn giữ kỷ lục về tốc độ tối đa chính thức nhanh nhất của một chiếc F1 với tốc độ 372 km/giờ trong quá trình thử nghiệm ở Monza năm 2005. Điều ấn tượng hơn là thời đó vẫn chưa có DRS!
2020 là năm nhanh nhất đối với F1. Động cơ V6 1,6 lít đang ở trên đỉnh cao trong quá trình phát triển, những chiếc xe được trang bị nhiều cánh và tấm khí động khác nhau giúp chúng có thêm downforce, từ đó tăng độ bám đường. Một số kỷ lục về tốc độ và thời gian lap đua đã bị phá trong mùa giải 2020.
Tại phiên phân hạng GP Ý 2020, Lewis Hamilton đã lập lap đua nhanh nhất lịch sử F1. Điều này có nghĩa là anh đã phá kỷ lục về tốc độ trung bình cao nhất trong một lap đua. Anh duy trì tốc độ trung bình 264 km/giờ trên toàn bộ đường đua ở Monza.
Vào năm 2020 và 2021, chúng ta đã chứng kiến một số kỷ lục lap đua bị phá vỡ, mặc dù chúng đã tồn tại hơn một thập kỷ. Cụ thể là ở những trường đua:
Điều đó có nghĩa là chúng ta đã chứng kiến tổng cộng 12 kỷ lục lap đua bị phá vỡ chỉ trong hai mùa giải. Đa số trong đó là những kỷ lục đã tồn tại từ giữa những năm 2000, những chiếc xe trước đó mặc dù có lốp trơn, ERS và DRS vẫn không thể đánh bại chúng.
Điều này cho thấy xe đã nhanh đến mức nào vào giữa những năm 2000 và chúng đã phát triển nhanh như thế nào trong hai năm qua. Kết quả tương tự ở năm 2020 và năm 2021 vì không có nhiều thay đổi được thực hiện giữa hai mùa giải, và hầu hết các xe về cơ bản vẫn được giữ nguyên.
Chiếc xe F1 nhanh nhất mọi thời đại là Mercedes W11 và Ferrari F2004. Cả hai chiếc xe này đều cực kỳ vượt trộid và đều đã lập nhiều kỷ lục về tốc độ và lap đua vào thời điểm này. Tuy nhiên, nếu chiếc Ferrari F2004 với lốp trơn, ERS và DRS, rất có thể nó sẽ nhanh hơn chiếc Mercedes W11.
Ferrari F2004 là một trong những chiếc xe thống trị nhất trong lịch sử môn thể thao này, với thành tích 15 chiến thắng và 30 podium trong 20 chặng đua. Chiếc xe mang tính biểu tượng này được nhiều người coi là chiếc xe F1 nhanh nhất từng được chế tạo từ trước tới nay.
Nó chắc chắn là một ứng cử viên sáng giá cho những vị trí dẫn đầu về chiếc xe F1 nhanh nhất trong lịch sử. Nếu bạn cho nó bộ lốp trơn, DRS và ERS, nó gần như chắc chắn có thể “out trình” tất cả những chiếc xe F1 ngày nay.
F2004 có thể nhanh như vậy là vì Ferrari đã tập trung rất nhiều vào khả năng tăng độ bám ở phía sau. Một khung gầm mới và cải tiến được chế tạo với trọng lượng cực kỳ nhẹ cũng đã giúp ích rất nhiều cho đội.
Bản thân tay đua Michael Schumacher đã đóng góp rất nhiều vào chiếc xe, cùng với Jean Todt và Ross Brawn, đã tạo nên “đội ngũ trong mơ” ở Công thức 1.
Chiếc Mercedes-Benz W11 2020 cũng có thể dễ dàng cạnh tranh danh hiệu chiếc xe nhanh nhất trong lịch sử F1. Mặc dù Mercedes đã thống trị môn thể thao này kể từ năm 2014, nhưng rõ ràng W11 hoàn toàn là một con mãnh thú khác.
Ngay cả với sự gián đoạn do đại dịch COVID-19, ngay từ đầu mùa giải 2020, chiếc xe này đã nhanh đến không ngờ. W11 đã giành được nhiều kỷ lục lap đua trong mùa giải 2020, phá vỡ nhiều kỷ lục đã tồn tại trong gần hai thập kỷ.
Chiếc xe này cũng thống trị hoàn toàn khi giành được 13 chiến thắng và 25 lần lên bục podium chỉ sau 17 chặng đua, giúp Hamilton giành chức vô địch thế giới lần thứ 7 tại GP Thổ Nhĩ Kỳ với 4 chặng đua còn lại. W11 chắc chắn sẽ đi vào sử sách của F1.
Red Bull RB6, mặc dù không phải là chiếc xe Red Bull nổi bật nhất từng được chế tạo (danh hiệu đó thuộc về RB9 2013) nhưng lại là một chiếc xe cực kỳ nhanh. RB9 đã dẫn trước rất nhiều đối thủ, nhưng RB6 lại được khẳng định là chiếc xe tạo ra downforce nhiều nhất nếu so với bất kỳ chiếc xe nào trong lịch sử môn thể thao này.
Trong F1, downforce là vua! Mùa giải 2010 có sự góp mặt của chiếc Red Bull RB6 là một trong những trận chiến sát sao trong môn thể thao này, với 4 tay đua tham gia để giành danh hiệu vô địch ở chặng đua cuối cùng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là RB6 không nhanh.
Điều ấn tượng ở RB6 là khả năng vào cua tốc độ cao. RB6 có lượng downforce lớn đến mức nó có thể vào cua nhanh hơn nhiều so với những chiếc xe khác, điều này bạn có thể thấy rõ từ đoạn phim quay trên xe. RB6 đã có thể vượt qua góc cua số 9 của đường đua Catalunya, nơi mà ngay cả những chiếc xe F1 hiện đại cũng phải bị nâng lên một chút!
Mặc dù RB6 vẫn có thể thua W11 và F2004 về tốc độ tổng thể, nhưng nó xứng đáng được nhắc đến trong danh sách này vì đó là chiếc xe có thể tìm ra sơ hở trong các quy tắc và trở thành một trong những chiếc xe sản xuất có downforce cao nhất từng được chế tạo.
Nếu bạn đang tìm kiếm chiếc xe có tốc độ tối đa cao nhất trong lịch sử F1 thì đó chính là chiếc Honda BAR 2006 đã được sửa đổi. Đội đua Honda đã đưa một trong những chiếc xe đời 2006 của họ đến vùng đồng bằng muối Bonneville ở Utah. Họ loại bỏ cánh gió sau để giảm lực cản và thiết lập chiếc xe để đạt tốc độ tối đa.
Honda đạt tốc độ tối đa 395 km/giờ, và ngoài việc thiếu cánh gió sau, đội Honda tuyên bố rằng đây là một chiếc xe hoàn toàn hợp lệ với tất cả các quy định kỹ thuật của FIA. Tốc độ này đã được thiết lập chỉ đơn thuần đến từ việc lắp ráp xe và loại bỏ cánh sau, và rõ ràng là nó nhanh hơn nhiều so với khả năng nó có trên đường đua!
Kỷ nguyên nhanh nhất của F1 là ở hai mùa giải 2020-2021. Mặc dù có thể không đáng được gọi là một “kỷ nguyên”, nhưng 2 năm này đã chứng kiến các kỷ lục lap đua và kỷ lục tốc độ kéo dài hàng thập kỷ bị phá vỡ.
Trong khi tốc độ tối đa nhanh nhất được thiết lập trước 2 mùa giải này thì tốc độ trung bình nhanh nhất được thiết lập tại Monza vào năm 2020.
FIA đã giới thiệu hệ thống quét laser để kiểm tra kỹ thuật xe F1 một cách chính xác hơn, giúp đảm bảo các đội tuân thủ quy định khí động học phức tạp.
Các fan hâm mộ của F1 chắc hẳn không còn lạ lẫm gì với cảnh một đoàn làm phim núp bóng mình sau các chặng GP trong 2 năm vừa qua.
Có vẻ như là bất kể các tay đua F1 nào (ngoài “cụ” Fernando Alonso ra) rồi cũng sẽ bị thay thế bởi một tài năng trẻ tuổi với mức lương thấp hơn mình mà thôi.
Tay đua mô phỏng - một người quan trọng về thiết lập xe để đưa ra phản hồi cho các kỹ sư và tay đua, thực hiện những công việc gì để có những phản hồi đó tại F1
Việc phải cạnh tranh với một tay đua tầm cỡ như Max Verstappen là một thử thách vô cùng lớn.
Sau những vấn đề về cánh linh hoạt, giới chuyên môn đã đưa ra một vài giải pháp nhằm hạn chế những bất cập về mặt quy định của FIA.
Chỉ nặng 29 kg nhưng Quark được Koenigsegg khẳng định là động cơ có tỷ lệ momen xoắn - công suất - trọng lượng hàng đầu.
Quá trình phát triển của hộp số PDK từng bị gián đoạn do công nghệ nghèo nàn, nhưng sớm trở lại thăng hoa từ khi được trang bị trên chiếc Porsche 944 Turbo.
Động cơ thùng bằng điện mới toanh này là một minh chứng cho thấy xe điện hoàn toàn có thể đạt hiệu suất cao chẳng thua kém gì những chiếc xe chạy bằng xăng.
Công nghệ hoàn toàn mới đã được Toyota giới thiệu với hy vọng giúp khách hàng giải quyết những tình huống cần di chuyển nhiều xe mà không có đủ tài xế.
Trong 8 năm tới, toàn bộ các sản phẩm hiện tại của Bentley sẽ dần được thay thế bằng những thế hệ xe điện hoàn toàn mới.
Không chỉ là một sản phẩm đột phá về mặt công nghệ, thế hệ pin li-ion thứ 6 của BMW còn được sản xuất với ít hơn 60% lượng khí CO2 và 50% chi phí.
Làm rõ những lầm tưởng khiến Toyota Supra Mk4 được đánh giá quá cao trong giới chơi xe.